Biosmark
Biosmark
NgânLượng.vn – Ví điện tử&Cổng thanh toán trực tuyến AN TOÀN bằng thẻ các ngân hàng trong & ngoài nước; Được bảo hộ & cấp phép bởi NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM; Ví điên tử DUY NHẤT được cộng đồng bình chọn ƯA THÍCH NHẤT 2 năm liên tiếp
Biosmark Hướng dẫn mua hàng
 
Cây thuốc Việt Nam
Tính năng dược vật

Tính năng dược vật là tác dụng dược lý của vị thuốc để điều chỉnh lại sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể. Tính năng của một vị thuốc bao gồm : khí, vị, thăng, giáng, phù, trầm và bổ tả.

I. Tứ khí

Thuốc cổ truyền có tứ khí (bốn khí), còn gọi là tứ tính, đó là hàn, lương, ôn, nhiệt. Bốn loại tính chất này do sự phản ứng của cơ thể khi dùng thuốc mà nhận thấy.

Hàn, lương thuộc âm, những vị thuốc hàn, lương còn gọi là âm dược. Ôn, nhiệt thuộc dương, những vị thuốc ôn, nhiệt còn gọi là dương dược. Ở giữa mức độ hàn lương, ôn nhiệt còn có tính bình. Tính của vị thuốc tồn tại một cách khách quan và mang tính chất tương đối.

Những vị thuốc có tính hàn hoặc lương được dùng để điều trị những bệnh thuộc chứng nhiệt. Ví dụ : Thạch cao có tính hàn vì thạch cao có tác dụng đối với bệnh sốt cao; hoàng liên có tính hàn vì hoàng liên có tác dụng thanh tâm hoả; miết giáp có tính hàn vì nó có tác dụng trừ nhiệt phục do thể âm hư ; mạch môn có tính lương có tác dụng chữa ho do nhiệt; kim tiền thảo tính lương chữa bàng quang thấp nhiệt dẫn đến tiểu tiệnvàng, đỏ, buốt, dắt. . . Tóm lại thuốc có tính hàn lương, có tác dụng thanh nhiệt tả hoả, lương huyết, giải độc, lợi tiểu. . . Nói một cách khác chúng có tác dụng ức chế sự hưng phấn quá mức của cơ năng toàn bộ hay cục bộ . Ví dụ ức chế trung khu điều hoà nhiệt độ, ức chế hệ thống thần kinh , giảm trương lực hoặc nhu động ruột . Về thành phần hoá học , các thuốc mang tính hàn lương , phần lớn trong thành phần có các hợp chất glycozid, alcaloid, chất đắng...

Các vị thuốc có tính bình trên thực tế chúng có tác dụng lợi thấp, lợi tiểu, hạ khí, long đờm, bổ tỳ vị ; ví dụ: hoài sơn, cam thảo, bạch cương tằm, tỳ giải, kim tiền thảo, râu ngô. . .

Các vị thuốc có tính bình như: hoài sơn, cam thảo...

II. Ngũ vị

Thông qua vị giác mà nhận thấy vị: Cay (tân), chua (toan), đắng (khổ), ngọt (cam), mặn (hàm). Ngoài ra, thực tế còn có vị nhạt (đạm) và vị chát. Mỗi dược liệu được đặc trưng bởi một hoặc nhiều vị do cảm giác của lưỡi đem lại ; có thể chỉ có một vị đắng như hoàng cầm, hoàng bá, xuyên tâm liên ; có thể có hai vị vừa đắng vừa ngọt như địa cốt bì, thảo quyết minh ; hoặc vừa đắng lại vừa cay như cát cánh ; hoặc vừa cay lại vừa mặn như tạo giác; hoặc cay và chua như ngư tinh thảo . Cũng có khi có ba vị như tê giác : đắng, chua, mặn. Cá biệt có tới năm vị như ngũ vị tử: chua, cay, đắng, mặn, ngọt.

1. Vị cay

Có tính chất phát tán, giải biểu, phát hãn, hành khí, hành huyết, giảm đau, khai khiêú. Thường dùng vị cay trong các bệnh cảm mạo, các bệnh đầy bụng, trướng bụng, đau bụng, dùng thuốc cay với tính chất khử hàn ôn trung chỉ thống: chữa đau răng, đau buốt cơ nhục. . .

Trên thực tế có một ít vị thuốc thực chất khi nhấm không thấy vị cay, song do có tác dụng phát hãn nên cũng được coi như có vị cay như vị cát căn

Về thành phần hoá học, vị cay chủ yếu là vị của tinh dầu trong dược liệu, đôi khi là alcaloid ( trong ớt).

2. Vị ngọt

Có tác dụng hoà hoãn, giải co quắp của cơ nhục, tác dụng nhuận tràng, làm cho cơ thể tỉnh táo và bồi bổ cơ thể. Ví dụ: mật ong, cam thảo, di đường, cam giá. . .
Về thành phần hoá học, vị ngọt chủ yếu là do đường . Nhiều vị thuốc khi dùng với tác dụng bổ còn tiến hành trích với mật ong để tăng vị ngọt. Ví dụ : hoàng kỳ , đẳng sâm, cam thảo trích với mật ong để bổ tỳ, kiện vị...

Vị thuốc Hoàng kỳ

3. Vị đắng

Có ở rất nhiều vị thuốc . Nói chung đắng có tác dụng tương đối mạnh . Mức độ đắng của vị thuốc có thể từ đắng nhẹ như nhân sâm, tam thất; đến rất đắng như xuyên tâm liên, long đởm thảo.

Vị đắng có tác dụng thanh nhiệt (thanh nhiệt tả hoả và thanh nhiệt táo thấp ), chống viêm nhiễm, sát khuẩn, chữa mụn nhọt hoặc rắn độc côn trùng cắn . Ngoài ra vị đắng còn có tác dụng độc với cơ thể (đương nhiên còn phụ thuộc vào liều lượng dùng). Các thuốc có tính độc thường có vị đắng . Các thuốc có vị đắng dùng lâu thường gây táo cho cơ thể ; trước hết ảnh hưởng xấu tới thần kinh vị giác làm cho ăn uống không biết ngon; kích thích lên niêm mạc dạ dày, ruột (đặc biệt lúc đói) tạo ra cảm giác buồn nôn khó chịu . Nhiều vị thuốc sau khi chế biến trở nên đắng như đởm nam tinh. Sau khi sao tồn tính hoặc sao cháy, vị thuốc thường trở nên đắng nhẹ

Về mặt thành phần hoá học , vị đắng phần lớn là do các hợp chất glycozid, alcaloid, còn các thành phần polyphenol flavonoid thường cho vị đắng nhẹ.

4. Vị chua

Vị chua có tác dụng thu liễm (làm săn da), liễm hãn (giảm ra mồ hôi), cố sáp (làm chắc chắn lại), chỉ ho, chỉ tả, sát khuẩn, chống thối . Một số thuốc có vị chua như sơn tra, táo nhục, ô mai, ngũ vị tử. . .

Vị chua được quy vào kinh can đởm ; nhiều vị thuốc được tẩm với dấm để dẫn thuốc vào kinh can

Vị chua trong vị thuốc là vị của các hợp chất acid hữu cơ: acid ascorbic, acid oxalic, acid malic...

5. Vị mặn

Vị mặn có tác dụng nhuyễn kiên (làm mềm khối rắn ), có tác dụng nhuận hạ, tiêu đờm, tán kết. Thường được sử dụng trong các bệnh loa lịch (bệnh tràng nhạc), ung nhọt, bướu cổ. Vị mặn còn có tác dụng dẫn thuốc vào kinh thận.

Nhiều vị thuốc bản thân nó đã mang vị mặn như hải tảo, thạch quyết minh, long cốt. . . Nhiều vị thuốc khi dùng phải tẩm trích với muối ăn để có thêm vị mặn như đỗ trọng, hương phụ, trạch tả. . . Tuy nhiên đối với từng loại bệnh thận cụ thể phải có cách trích muối sao cho phù hợp, để tránh tác dụng phụ sau khi dùng.

6. Vị nhạt

Có tác dụng làm tăng tính thẩm thấp, tăng lợi thuỷ, lợi tiểu, có tác dụng thanh lọc, thanh nhiệt. Thường dùng các vị thuốc có vị nhạt để chữa các bệnh phù thũng, ung nhọt, nhiệt độc hoặc cơ thể bịviêm nhiễm, sốt cao hoặc chứng nhiệt trong cơ thể, các trường hợp tiểu tiện bí dắt, nước tiểu vàng đỏ rất thích hợp với loại vị này.

Những thuốc vị nhạt thường thể chất nhẹ, màu trắng như bạch mao căn, đăng tâm thảo, thông thảo, bạch phục linh. . .

7. Vị chát

Khi nhấm vị thuốc có vị chát sẽ cho cảm giác se lưỡi ; cũng có tác dụng thu liễm, cố sáp như vị chua . Tính chất sát khuẩn, chống thối rữa của vị chát mạnh hơn vị chua. Ngoài ra còn có tác dụng kiện tỳ, sáp tinh . Thường dùng vị thuốc có vị chát để điều trị các bệnh tiết tả, di tinh, bỏng, mụn nhọt vỡ loét hoặc lâu liền miệng. Ví dụ như thạch lựu bì, búp sim, búp ổi, liên nhục, khiếm thực.

III. Quan hệ giữa khí và vị

Khí (tính) và vị của vị thuốc trên thực tế không thể tách rời nhau ; nó quan hệ với nhau một cách hữu cơ .

Ví dụ, các vị thuốc có tính hàn thường vị đắng, mặn. . . thuốc có tính nhiệt thường có vị cay; thuốc có tính bình thường có vị nhạt, chát. . .

Chú ý, một số vị thuốc cho nhiều vị khác nhau, ví dụ sơn thù du vừa chát lại vừa chua, long cốt vừa ngọt lại vừa chát, vì thế khi sắp xếp "vị " của nó, ta ưu tiên cho những vị sẽ cho công năng rõ hơn lên trên. Ví dụ: ngũ vị tử có 5 vị, song vị chua được ưu tiên trước nhất, sơn thù du vị chát được xếp ưu tiên vì tác dụng cố sáp của nó rõ hơn.

1. Các vị thuốc có tính và vị giống nhau

Các vị thuốc có tính và vị giống nhau thì tác dụng của nó giống nhau hoặc gần giống nhau. Ví dụ, hoàng bá, hoàng cầm đều có vị đắng tính hàn, chúng đều có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp, chống viêm, thoái nhiệt. Quế chi, bạch chỉ đều có vị cay, tính ôn tác dụng của chúng là tán hàn, giải biểu, phát hãn, thông kinh hoạt lạc, giảm đau.

Do đó trong những trường hợp cần thiết, ta có thể dùng chúng thay thế cho nhau mà vẫn đạt được những hiệu quả mong muốn . Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể cũng cần xem xét đến tác dụng đặc thù của từng vị thuốc. Ví dụ: bạch chỉ tán hàn giải biểu, giảm đau, song còn có tác dụng bài nùng (làm hết mủ); quế chi cũng có tác dụng giải biểu, tán hàn, song lại có tác dụng trục ứ huyết thông kinh bế, trục thai chết lưu. . .

2. Các vị thuốc có tính hoặc vị khác nhau

Các vị thuốc có cùng tính, nhưng khác vị, tác dụng cũng khác nhau. Ví dụ, hoàng liên, sinh địa cùng tính hàn, nhưng hoàng liên vị đắng, sinh địa đắng nhẹ, ngọt. Hoàng liên có tác dụng táo thấp ; sinh địa có tác dụng tư âm, lương huyết, sinh tân, chỉ khát.

Các vị thuốc có cùng vị, nhưng khác tính, tác dụng cũng khác nhau. Ví dụ, bạc hà vị cay, tính lương có tác dụng giải cảm nhiệt ; tô diệp vị cay, tính ôn có tác dụng giải cảm hàn. Hoặc thạch cao vị cay, tính hàn tác dụng thanh nhiệt, hạ hoả ; sa nhân vị cay, tính ôn tác dụng hành khí, giảm đau kiện tỳ, hoá thấp.

3. Các vị thuốc có tính và vị khác hẳn nhau

Các vị thuốc có tính hoặc vị khác nhau, có tác dụng khác hẳn nhau. Ví dụ, quế nhục vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, có tác dụng khử hàn ôn trung. Hoàng liên vị đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt táo thấp. Ô mai vị chua, tính ấm,có tác dụng thu liễm, chỉ ho, sinh tân, chỉ khát.

4. Tính và vị của vị thuốc thay đổi khi tiến hành chế biến bằng các phương pháp chế của dược cổ truyền.

Tính và vị của vị thuốc thay đổi khi tiến hành chế biến bằng các phương pháp chế của dược cổ truyền và tác dụng của nó cũng thay đổi . Ví dụ, sinh địa vị đắng, tính hàn có tác dụng thanh nhiệt lương huyết . Sau khi chế biến thành thục địa, tính trở nên ấm, vị trở nên ngọt, có tác dụng bổ huyết. Đỗ trọng vị ngọt, hơi cay sau khi trích muối, đỗ trọng thêm vị mặn, tăng cường tác dụng bổ can thận. Cam thảo vị ngọt tính bình, sau trích mật ong tính trở nên ấm hơn, tác dụng kiện vị, chỉ ho tốt hơn.

IV. Khuynh hướng thăng, giáng, phù, trầm của vị thuốc

Thăng, giáng, phù, trầm chỉ 4 khuynh hướng tác dụng của thuốc cổ truyền . Cần nắm chắc các khuynh hướng tác dụng của chúng để phát huy hiệu quả điều trị . Đa số trong các trường hợp khuynh hướng tác dụng của thuốc luôn ngược với chiều của bệnh tật thì mới đạt kết quả tốt trong điều trị

1. Thăng

Khuynh hướng của khí vị của thuốc hướng lên thượng tiêu, sau khi uống thuốc vào cơ thể, với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng sa giáng (sa dạ dày, trĩ, sa dạ con. . . ) để đưa các tạng phủ dó về vị trí nguyên thuỷ. Các vị thuốc chủ thăng thường có tính chất kiện tỳ ích khí thăng dương khí như hoàng kỳ, đẳng sâm, thăng ma, sài hồ.

2. Giáng

Khuynh hướng của khí vị của thuốc hướng xuống hạ tiêu sau khi uống vào cơ thể, với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng đi lên thượng tiêu (thượng nghịch) như bệnh hen suyễn khó thở, ho đờm, nôn mửa. . . Các vị thuốc chủ giáng thường có tính chất hạ khí, giáng khí, bình suyễn như ma hoàng, hạnh nhân, cát cánh. . . (hạ phế khí nghịch), thị đế, bán hạ, phục long can. . . (hạ vị khí nghịch).

3. Phù

Khuynh hướng của khí vị của thuốc hướng ra phía ngoài (phía biểu), với mục đích để chữa các bệnh có xu hướng lấn sâu vào phía trong (phía lý) . Ví dụ các bệnh cảm mạo phong hàn, cảm mạo phong nhiệt. Các vị thuốc chủ phù thường có tính chất phát hãn, phát tán giải biểu, hạ nhiệt, chỉ thống. Đó là các vị thuốc tân lương giải biểu như cát căn, bạc hà, tang diệp, cúc hoa. . . hoặc các vị thuốc tân ôn giải biểu như quế chi, bạch chỉ, phòng phong, tế tân. . .

4. Trầm

Khuynh hướng của khí vị của thuốc đi vào phía trong (phía lý ) với mục đích để chữa các bệnh có xu hướng phù nổi ra phía biểu như bệnh đạo hãn, tự hãn, bệnh phù thũng, bệnh mụn nhọt, ban chẩn dị ứng, mẩn ngứa. Đó là các vị thuốc thẩm thấp lợi niệu như kim tiền thảo, sa tiền tử, tỳ giải. . . hoặc thuốc tả hạ như đại hoàng, mang tiêu, trầm hương, tô mộc. . . hoặc thuốc thanh nhiệt, giải độc như liên kiều, kim ngân, bồ công anh.

Mỗi vị thuốc đều có khuynh hướng tác dụng của nó, song không cố định mà có tính chất tương đối. Thông qua sao, tẩm, chế biến hoặc thông qua phối ngũ với các vị thuốc khác có thể làm thay đổi hoặc giảm nhẹ khuynh hướng tác dụng của nó. Ví dụ: hoàng liên bản chất có khuynh hướng giáng dùng để điều trị các bệnh ở vùng trung tiêu, hạ tiêu như viêm ruột, lỵ. . . song khi sao với rượu, khuynh hướng tác dụng của hoàng liên lại trở nên thăng, lúc này dùng để chữa chứng tâm hoả dẫn đến loét mồm miệng, phồng rộp lưỡu. . . Sài hồ bản chất là thăng, khi sao với dấm nó trở thành giáng. Bán hạ, tỳ bà diệp bản chất là trầm, sao với nước gừng nó trở thành phù, có tác dụng phát tán. Sinh khương bản chất phù, thăng, có tác dụng phát tán phong hàn, sau khi chế qua lửa (sao, nướng), tác dụng lại trầm hướng vào trong.

Khuynh hướng của vị thuốc có quan hệ đến khí vị của vị thuốc như : ma hoàng, quế chi vị cay, ngọt, tính ôn, nhiệt, có khuynh hướng thăng phù. Đại hoàng, mang tiêu vị mặn, đắng, tính hàn lương có khuynh hướng trầm giáng.

Khuynh hướng của vị thuốc có quan hệ đến thể chất của vị thuốc. Các loại hoa, lá có thể chất mỏng manh, nhẹ có khuynh hướng thăng, phù. Các loại khoáng thạch, các loại có thể chất rắn chắc, nặng có khuynh hướng trầm, giáng.

Trong khi bào chế cần chú ý một số nguyên tắc sau: với các vị thuốc thăng, phù không nên đun lâu và nên dùng lửa nhỏ; còn sắc vị trầm giáng có thể dùng lửa to và thời gian đun lâu hơn cũng không ảnh hưởng tới dược tính của nó.

V. Bổ tả

Bệnh tật là quá trình đấu tranh mất đi hay phát triển của chính khí và tà khí. Vì vậy bệnh tật có 2 mặt : hư và thực.

Nguyên tắc điều trị: hư thì bổ, thực thì tả, do đó tính của thuốc căn cứ yêu cầu chữa bệnh còn chia thành hai loại: thuốc bổ và thuốc tả.

Trong khi vận dụng thuốc để điều trị bệnh, trước hết phải nắm được khí, vị sau đó tiến lên phân loại thuốc bổ hay tả. Ví dụ: Hoàng liên vị đắng, tính hàn có tác dụng thanh nhiệt táo thấp là thuốc tả; thiên môn vị ngọt, tính hàn chữa âm hư gây sốt là thuốc bổ.

Trên thực tế lâm sàng, do tính chất phức tạp của bệnh tật, chứng hư và chứng thực thường lẫn lộn, đan xen nhau, hoặc bẩm tố là hư mắc thêm bệnh mới thì khi dùng thuốc phải vận dụng bổ tả cho thích hợp (công bổ kiêm trị).

Nguồn tin:    Theo https://ninhtinhtrivien/home
Các bài khác